
Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội vừa được Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành. Trong ảnh là nội dung chủ yếu của Bộ Quy tắc do Thông tấn xã Việt Nam tóm tắt
(Stxdd.thanhuytphcm.vn) - Ngày 17/6/2021, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định số 874/QĐ-BTTTT về việc ban hành Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội. Bộ Quy tắc này có 3 chương và 9 điều, nêu những vấn đề khái quát về mục đích, đối tượng, phạm vi, nội dung của bộ quy tắc ứng xử, trong đó nêu rõ Quy tắc ứng xử chung, Quy tắc ứng xử cho tổ chức, cá nhân, Quy tắc ứng xử cho cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong cơ quan nhà nước, Quy tắc ứng xử cho các cơ quan nhà nước, Quy tắc ứng xử cho các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội. Tuy có một số ý kiến nhận xét khá lệch lạc về Bộ Quy tắc này nhưng trên thực tế, đây sẽ là định hướng cần thiết để người sử dụng mạng xã hội có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình một cách văn minh, lành mạnh, tiến bộ.
Một số trong những nhận xét phiến diện đáng chú ý về Bộ Quy tắc này là có người lo ngại về vấn đề tự do. Họ cho rằng các quy tắc sẽ giới hạn hoặc thu hẹp quyền tự do nói chung của cá nhân, nhất là quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin… Thực ra, quyền tự do ngôn luận đã được quy định ở Điều 25 Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.
Điều 25 nêu rõ 2 vế: thứ nhất, công dân có quyền tự do; thứ hai, quyền tự do đó do pháp luật quy định và đương nhiên phù phù hợp với các luật khác. Đối với mạng xã hội, các cá nhân có quyền tự do sử dụng hay không sử dụng và việc sử dụng như thế nào phải phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan. Tức là, không phải vì là trang cá nhân của mình thì chủ sở hữu có quyền đăng bất kể nội dung gì.
Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam đã định nghĩa “tự do” như sau: “1. Phạm trù triết học chỉ khả năng biểu hiện ý chí, làm theo ý muốn con người, trên cơ sở nhận thức được quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. 2. Trạng thái một dân tộc, một xã hội và các thành viên không bị cấm đoán, hạn chế vô lý trong các hoạt động xã hội - chính trị như dưới các chế độ thực dân, chuyên chế, độc tài: đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc, các quyền tự do dân chủ”.
Khi đề cập tự do, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến “tự do cá nhân”, là một bộ phận trong phạm vi tự do chung mà xã hội đạt được ở mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể; mức tự do cá nhân phụ thuộc vào tính chất của chế độ xã hội - chính trị ở từng thời kỳ tiến hóa và phát triển cụ thể. Cách mạng tư sản coi tự do là quyền tự nhiên của con người; nhưng trên thực tế, quyền đó được thực hiện đâu còn nhiều điều đáng bàn. Những nhà lý luận xã hội chủ nghĩa cho rằng tự do cá nhân thực sự chỉ có thể có trong một chế độ xã hội đã thủ tiêu quan hệ đối kháng giữa người với người. Tuyên ngôn của đảng cộng sản do Marx và Engels khởi thảo cho rằng “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Trong xã hội ấy, mỗi cá nhân tự đề ra cho mình những mục đích phù hợp với lợi ích của tất cả các thành viên khác trong xã hội; mỗi cá nhân đã tùy theo năng lực và trình độ tri thức của mình mà có phần của mình trong phạm vi tự do chung mà toàn xã hội đạt được…
Điều này có nghĩa rằng, mỗi cá nhân có quyền tự do nhưng phải phù hợp với thực tiễn của cộng đồng và xã hội, tức là phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, tập quán, lối sống, tôn giáo, trình độ… Do đó, tự do là phạm trù mang tính lịch sử cụ thể, tức là ở mỗi không gian và thời gian khác nhau thì nhận thức và cách thực hiện các quyền tự do không giống nhau.
Một phần Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội dành cho người lao động của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) ban hành
Những nhà lý luận của cách mạng tư sản Pháp (cuối thế kỷ XVIII) đã nêu khái quát về tự do: đó là được làm mọi điều không xâm phạm đến tự do của người khác. Như vậy, tự do là chúng ta có thể làm bất cứ việc gì để bản thân được tồn tại và hạnh phúc, nhưng không có quyền xâm phạm tới tự do của người khác để tìm lợi ích cho mình hay vì bất cứ lý do nào. Mỗi người có quyền tự do của cá nhân mình, nhưng quyền tự do đó không thể xâm phạm vào quyền tự do của một cá nhân khác.
Về việc sử dụng mạng xã hội, mỗi cá nhân có thể chủ động và tự do thực hiện việc đăng tải thông tin, hình ảnh… trên trang cá nhân của mình nhưng không gây ảnh hưởng, thiệt hại cho các chủ thể khác (cá nhân, tổ chức hoặc xã hội).
Trên quan điểm này, Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội đã nêu rõ mục đích nhằm “tạo điều kiện phát triển lành mạnh mạng xã hội tại Việt Nam, đảm bảo quyền tự do cá nhân, quyền tự do kinh doanh (chúng tôi nhấn mạnh), không phân biệt đối xử nhà cung cấp dịch vụ trong và ngoài nước, phù hợp với chuẩn mực, thông lệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia”. Như vậy, các quy tắc này không hạn chế quyền tự do cá nhân của bất kỳ ai mà là bảo đảm rằng mọi người đều được bảo vệ sự tự do của mình trên môi trường mạng xã hội.
Trên thực tế, một số người sử dụng mạng xã hội đưa công khai hình ảnh, thông tin cá nhân của người khác mà không có sự đồng ý của họ và cho rằng đó là tự do. Trong nhiều trường hợp, việc công khai này đã ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm, quyền lợi… của người đó. Thậm chí, có người còn nhân danh này nọ để công kích, bôi nhọ, kết tội người khác cứ như là họ có quyền làm việc đó. Tức là, sự tự do của người này đã làm ảnh hưởng đến tự do của người khác.
Thí dụ, có trường hợp cá nhân lợi dụng việc cảnh báo mọi người về hành vi lừa đảo của một người nào đó rồi đưa hình ảnh, thông tin cá nhân, chi tiết về thân nhân của người đó lên trang cá nhân của mình, trong khi người đó chưa có kết luận chính thức của cơ quan có thẩm quyền về hành vi sai trái như sự cảnh báo. Giả sử sau khi xác minh, người đó hoàn toàn không có hành vi sai trái như đã nêu nhưng thông tin về quy kết đó đã đến với rất nhiều người và gây ra những hậu quả nặng nề về nhiều mặt cho người đó thì ai sẽ chịu trách nhiệm về hậu quả này hoặc ai sẽ phải khắc phục hậu quả khi mà thông tin sai lệch đã loang ra khắp nơi? Khi đó, sự tự do rõ ràng là vô trách nhiệm và bị lạm dụng một cách sai trái.
Thực tế điều này đang diễn ra khá phổ biến và những trường hợp đấu tranh pháp lý để có thể bảo vệ được quyền lợi của bản thân là rất ít. Nhiều người khác phải đành chấp nhận cho qua vì thấy rằng “chờ được vạ má đã sưng” hoặc rất khó có thể tự bảo vệ mình khi những cách thức “vạch mặt” thủ phạm cũng không hề dễ dàng. Do đó, tốt hơn hết là không để xảy ra các trường hợp người sử dụng mạng xã hội thể hiện sự vô ý, thiếu trách nhiệm hay có dụng ý sai trái.
Như vậy, Bộ Quy tắc ứng xử trên mạng xã hội của Bộ Thông tin và Truyền thông là một sự định hướng cần thiết và quan trọng để người sử dụng mạng xã hội Việt Nam có thể có những hành vi và cách ứng xử phù hợp, trước hết là không vi phạm pháp luật, sau nữa là tích cực và có ích, góp phần xây dựng môi trường mạng xã hội lành mạnh, tiến bộ. Tinh thần xuyên suốt của Bộ Quy tắc không phải là hạn chế quyền tự do cá nhân mà chính là để bảo vệ quyền tự do của mọi người.
Vân Tâm
Theo hcmcpv.org.vn